10/09/2024
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và một số hàm ý chính sách cho giai đoạn hiện nay
Lượt xem: 398
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định công tác tôn giáo là yếu tố trọng yếu trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời, Người đã đưa ra nhiều chỉ dẫn quan trọng, là cơ sở, nền tảng để công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước được thực hiện hiệu quả. Trong bối cảnh mới, cần tiếp tục vận dụng linh hoạt, sáng tạo các chỉ dẫn của Người để giải quyết hợp lý các vấn đề tôn giáo, góp phần xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt thân mật Đoàn đại biểu chức sắc, chức việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo, ngày 13-6-2024. (Nguồn: vietnamplus.vn)
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong quá trình quản lý đất nước, điều hành xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chỉ đạo thực hiện các giải pháp nhằm hiện thực hóa mục tiêu đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn 1945 - 1954), kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (giai đoạn 1954 - 1975), thống nhất và tái thiết đất nước sau ngày miền Nam giải phóng (năm 1975),... Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhìn thẳng vào những vấn đề còn hạn chế nhằm đổi mới tư duy, thay đổi tình trạng “chủ quan duy ý chí” trong nhận thức và ứng xử trong công tác tôn giáo. Mặt khác, Đảng ta mở rộng hướng tiếp cận vấn đề tôn giáo một cách phù hợp, khoa học, xem tôn giáo không chỉ là vấn đề chính trị, mà còn là tư tưởng, triết học, văn hóa, đạo đức, lối sống,...; thể hiện sự khách quan trong đánh giá vai trò của tôn giáo (có nhiều mặt tích cực cần phát huy, nhất là về đạo đức và văn hóa). Tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn, Đảng ta xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, do vậy phải tiếp tục đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện đầy đủ, đúng đắn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người trong điều kiện mới.
Đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu, ban hành chủ trương, chính sách nhằm phát huy những giá trị tích cực về đạo đức và văn hóa của tôn giáo(11), góp phần “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(12). Tính đến nay, Việt Nam có 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động(13); các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt, liên tục được công nhận tư cách pháp nhân, số lượng không ngừng tăng lên, mức độ đa dạng tôn giáo ở nước ta được xếp hạng nhóm đầu thế giới. Bên cạnh đó, các nhu cầu mở rộng quan hệ quốc tế, hoạt động sinh hoạt tôn giáo tập trung luôn được bảo đảm tổ chức, thực hiện, thậm chí, có những sự kiện lên tới vài chục nghìn người(14),... Có thể nói, tình hình tôn giáo nước ta thể hiện nhiều chuyển biến theo xu hướng tích cực; các hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp, tuân thủ pháp luật, các tổ chức tôn giáo xây dựng đường hướng sinh hoạt, phát triển tiến bộ; gắn bó tôn giáo với dân tộc, gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động an sinh xã hội; tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế trong điều kiện Việt Nam mở cửa và hội nhập quốc tế,... góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, sự ảnh hưởng toàn diện, mạnh mẽ từ quá trình hội nhập quốc tế và sự bùng nổ khoa học - công nghệ đã tác động không nhỏ đến cuộc sống thường nhật của người dân. Theo đó, đời sống tôn giáo cũng nhiều chuyển biến sâu sắc, đặc biệt, sự gia tăng số lượng các tín đồ, chức sắc khiến không gian phân bố, diện mạo, cấu trúc tôn giáo thay đổi theo xu hướng đa dạng, phức tạp hơn. Mặt khác, nhu cầu, quá trình sinh hoạt tôn giáo (đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên) diễn ra ngày càng đa dạng, phong phú, hình thành các cộng đồng hay hiện tượng tôn giáo mới (thường gọi là “đạo lạ”),...; đồng thời, có sự biến đổi về phương thức truyền giáo và lối sống đạo cả về nội dung lẫn hình thức, đặc biệt, yếu tố công nghệ thông tin và mạng xã hội đã trở thành phương tiện thuận lợi để các tổ chức tôn giáo thực hiện giới thiệu, phổ biến và quảng bá hình ảnh (như truyền giáo thời internet, cầu nguyện thời @, sống đạo online thời cách mạng 4.0(15),...). Bên cạnh đó, những âm mưu, thủ đoạn của các phần tử phản động, cơ hội chính trị hòng lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, nhân quyền để kích động, phá hoại, làm ảnh hưởng xấu tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tới đời sống ổn định, môi trường hòa bình đất nước,... Tình hình đó đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, cấp thiết trong xây dựng phương thức, biện pháp, chính sách phù hợp nhằm giải quyết, xử lý hiệu quả các vấn đề tôn giáo.
Nhân dân đón Giáng sinh tại khu vực Nhà thờ Lớn (quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). (Nguồn: tienphong.vn)
MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH TỚI
Một là, phải nhìn nhận, nghiên cứu vấn đề tôn giáo đặt trong tính tổng thể của khối đại đoàn kết toàn dân, có sự kế thừa tư tưởng đoàn kết dân tộc trong lịch sử, hướng tới kiến tạo sức mạnh thống nhất, toàn diện để đưa đất nước tiếp tục gặt hái những thành tựu trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh con người, trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần ghi nhận và đề cao những đóng góp của các giá trị tôn giáo đối với sự phát triển xã hội nói chung; chủ động, sẵn sàng nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo gắn với phát triển hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với tôn giáo.
Hai là, ngăn chặn, đẩy lùi tư tưởng giáo điều, thiếu linh hoạt, sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và hệ thống kiến thức, kinh nghiệm từ quốc tế vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại!”(16). Bên cạnh đó, tôn trọng các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng giáo dân, hàng ngũ giáo sĩ, nhà tu hành - những người có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với các tín đồ tôn giáo, hướng họ vào các hoạt động mang lại lợi ích chung của dân tộc.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác tôn giáo, góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích toàn dân tộc với lợi ích đặc thù của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó lợi ích chung của toàn dân tộc là tối thượng, quyết định, đồng thời tôn trọng lợi ích riêng, đặc thù nếu không tổn hại đến lợi ích chung. Ngoài ra, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục giúp cho đồng bào theo đạo nhận thức đúng hơn về vị trí, lợi ích của việc phát huy sự đồng thuận xã hội trong giai đoạn mới; chú trọng phương thức tôn trọng, vận động, thuyết phục hàng ngũ chức sắc tôn giáo, coi đây là biện pháp quan trọng để thực hiện chính sách đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc bằng thái độ trân trọng, tin tưởng, chân thành, cầu thị,...
Bốn là, kiên quyết ngăn chặn, xử lý các biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm phương hại đến lợi ích chung của dân tộc Việt Nam. Chủ động nâng cao nhận thức cho đồng bào các tôn giáo, đồng thời luôn đề cao cảnh giác những kẻ tuyên truyền lừa bịp, kích động, gây chia rẽ; giải quyết triệt để theo đúng pháp luật những phần tử cực đoan, cơ hội chính trị... trên tinh thần “Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(17). Mặt khác, đội ngũ cán bộ, quản lý đảm nhận công tác tôn giáo phải nhận thức công tác quản lý tôn giáo về mặt Nhà nước chính là giữ cho các hoạt động tôn giáo luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật; gương mẫu chấp hành chính sách tôn giáo; nỗ lực thực hiện tuyên truyền, giải thích cho đồng bào các tôn giáo hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; đồng thời, kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo./.
_______________________________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 88
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 19
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244
(4) Xem: Lương Văn Tâm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 8-10-2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/print/2218/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-ton-giao
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 462
(6) Như: Giám mục Lê Hữu Từ (Giáo phận Phát Diệm) và ông Ngô Tử Hạ (một trí thức Công giáo) được mời làm cố vấn tối cao của Chính phủ; ông Huỳnh Phú Sổ (Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo) được mời giữ chức Ủy viên đặc biệt Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ; Chưởng pháp Cao Triều Phát (Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo) được mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Bạc Liêu, Cố vấn Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ, Đại biểu Quốc hội khóa I; ông Nguyễn Ngọc Nhật (đạo Cao Đài) giữ chức Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hành chính Nam Bộ; ông Nguyễn Mạnh Hà (đạo Công giáo) làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế Quốc gia; ông Vũ Đình Tụng (đạo Công giáo) làm Bộ trưởng Bộ Y tế,..
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd, t. 8, tr. 313
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 280 - 281
(9) Xem: Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 95
(11) Nghị quyết số 24-NG/TW, của Bộ Chính trị, ngày 16-10-1990, “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về công tác tôn giáo”; Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2004); Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016); Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”,...
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 171
(13) Xem: Phương Linh: Các tôn giáo ở Việt Nam đồng hành cũng đất nước, Báo Quốc phòng Thủ đô điện tử, 28-2-2023
(14) Ví dụ: Năm 2009, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI tại Thành phố Hồ Chí Minh (với hơn 2.000 ni sư từ hơn 47 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới tham dự); năm 2011, tại thành phố Đà Nẵng, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đồng tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành có mặt tại Việt Nam (thu hút khoảng 20.000 người tham dự); năm 2012, tại tỉnh Đồng Nai, Hội nghị toàn thể Liên Hội đồng Giám mục châu Á lần thứ X khai mạc (có hơn 200 giám mục trên khắp thế giới về dự),...
(15) Xem: Nguyễn Phú Lợi: “Sự biến đổi đời sống tôn giáo ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Lý luận Chính trị điện tử, ngày 25-6-2019
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509 - 510
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 171
Nguồn bài viết: tapchicongsan.org.vn PGS, TS NGUYỄN THANH XUÂN - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ
|