ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH; NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM, HOÀN THÀNH TỐT NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO
Lịch sử của một tên gọi
Lượt xem: 32
Bây giờ thì tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở nên quá đỗi thân thuộc, thế nhưng quân đội ta từng có những tên gọi nào và tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất hiện từ bao giờ thì không phải ai cũng biết

1. Tên gọi đầu tiên của quân đội ta là Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, được thành lập theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và được đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến hành thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Sở dĩ đội lấy tên như vậy vì chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong chỉ thị là “chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội  tuyên truyền”, trong bối cảnh hết sức khó khăn của những ngày chuẩn bị lực lượng vũ trang tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau này, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân 22/12/1944 được lấy làm ngày kỷ niệm thành lập quân đội ta và cho đến nay đã tròn 80 năm.

2. Trong những đội quân tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngoài Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thành lập 22/12/1944 thì trước đó, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn được thành lập và duy trì. Trong quá trình đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng, các trung đội Cứu quốc quân lần lượt được thành lập Cứu quốc quân 1 (23/02/1941), Cứu quốc quân 2 (15/9/1941), Cứu quốc quân 3 (25/02/1944). Các trung đội Cứu quốc quân 1 và 2 đã trải qua những năm tháng ác liệt chiến đấu để bảo vệ vùng căn cứ địa và bảo vệ lực lượng của mình. Trong cuộc chiến đấu ác liệt này, các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, chỉ huy lực lượng Cứu quốc quân đã hy sinh anh dũng.

anh tin bai

Tái hiện Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, 22/12/1944 (Ảnh tư liệu)

Tháng 04/1945, Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc Giang chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang hiện có. Thực hiện chủ trương này, ngày 15/5/1945, tại Định Biên Thượng, Chợ Chu, Thái Nguyên, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã thống nhất với các đơn vị Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân.

Việt Nam Giải phóng quân chính là lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 trên cả nước.

3. Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Trong bối cảnh mới, lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục được xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, những tháng năm này là những tháng năm cách mạng Việt Nam ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi phải đối mặt với các thế lực thù trong, giặc ngoài và hàng loạt những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội. Ngay cả Đảng Cộng sản Đông Dương cũng phải tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào bí mật, để tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thù và để tăng cường thu phục các lực lượng yêu nước vào Mặt trận Việt Minh chống lại kẻ thù. Tháng 11/1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán thì cũng là thời điểm Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ Quốc đoàn. Đây là tên gọi thứ ba của quân đội ta. Ở vào thời điểm này, lực lượng vũ trang cách mạng có khoảng 50.000 người, được biên chế, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó có một số chi đội đã ngay lập tức Nam tiến để hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ.

4. Ngày 22/5/1946 theo Sắc lệnh 71- SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vệ Quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Quân đội ta lúc này đã được xây dựng hệ thống tổ chức chính quy, biên chế thống nhất theo trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Bên cạnh xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, Đảng ta cũng đã chú ý xây dựng lực lượng bán vũ trang (bao gồm dân quân, du kích, tự vệ) lên tới gần 2 triệu người. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Quân đội Quốc gia Việt Nam trở thành lực lượng chiến đấu ngăn chặn bước tiến quân thù và đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở đầu cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính.

anh tin bai

Công văn của Thủ tướng phủ về tên gọi chính thức của quân đội ta là Quân đội Nhân dân Việt Nam từ tháng 9/1954 (Tư liệu lưu trữ)

5. Năm 1949, thực dân Pháp trao trả độc lập cho chính quyền Bảo Đại và thành lập nhà nước Quốc gia Việt Nam. Nhà nước Quốc gia Việt Nam cũng tiến hành thành lập quân đội với tên gọi ban đầu là Vệ binh Quốc gia, sau đổi là Vệ binh Quốc gia Việt Nam và đến tháng 12/1950, chính thức đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, là một phần trong quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương.

Như vậy, đến thời điểm cuối năm 1950, cả quân đội ta và quân đội của Bảo Đại đều có tên là Quân đội Quốc gia Việt Nam, chỉ khác là một bên là quân đội cách mạng, bên kia là quân đội phản cách mạng. Vậy nên xuất hiện những ý kiến cho rằng nên tìm một cái tên khác để đặt tên cho quân đội ta nhằm phân biệt quân đội ta là quân đội cách mạng với quân đội bù nhìn của chính quyền Bảo Đại.

Chính vì vậy có ý kiến cho rằng tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam được xuất hiện từ cuối năm 1950 để phân biệt với quân đội quốc gia của chính quyền Bảo Đại. Suy luận này có vẻ logic nhưng lịch sử lại còn những bước đường lắt léo của nó.

Các tài liệu cho thấy kể cả đến năm 1951-1953 thì quân đội ta vẫn được gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam.

La Văn Cầu, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam đi Đại hội Thanh niên và Sinh viên thế giới, tổ chức vào tháng 8/1951 tại Berlin, Đức, đến tháng 5/1952, được phong Anh hùng quân đội trong Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc, trong bản báo cáo thành tích của mình tại Đại hội vẫn xác định rằng là đại biểu của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Vậy nên tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam được cho là xuất hiện từ cuối năm 1950 là tương đối hợp logic, tuy nhiên. lại không đúng với lịch sử bởi vì chưa có văn bản chính thức nào của Đảng và Nhà nước ta chính thức đổi tên Quân đội Quốc gia Việt Nam thành Quân đội Nhân dân Việt Nam, mặc dù lúc này, quan điểm chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta và nhà nước ta là Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ. Do vậy, có thể nói, từ năm 1950 đến tháng 9 năm 1954, Quân đội ta vẫn được gọi với tên Quân đội Quốc gia Việt Nam.

6. Gần đây, các tư liệu lịch sử được công bố cho thấy tên gọi chính thức của quân đội ta là Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất hiện lần đầu vào tháng 9/1954.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào thời điểm kết thúc. Trước tình hình tên gọi quân đội ta vẫn chưa thống nhất, ngày 23/9/1954, Thủ tướng phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Công văn số 400 – TTg do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, gửi các bộ, các ủy ban hành chính liên khu và khu, các đoàn thể ghi rõ: “Quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ nay gọi thống nhất là Quân đội Nhân dân Việt Nam”.

Như vậy, tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam chính thức xuất hiện từ sau ngày 23/09/1954, sau khi chúng ta giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với Hiệp định Geneva được ký kết và thời điểm Đảng, Chính phủ, quân đội ta đang chuẩn bị trở về tiếp quản Thủ đô Hà Nội từ tay thực dân Pháp và chính quyền tay sai.

Lịch sử quân đội ta tròn 80 năm và lịch sử tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã tròn 70 năm.Từ năm 1944 đến năm 1954, trong vòng 10 năm, quân đội ta đã mang những cái tên như đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quânViệt Nam giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và từ tháng 9/1954 đến nay, chính thức mang tên Quân đội Nhân dân Việt Nam.

 

Nguồn bài viết: thinhvuongvietnam.com
Tác giả: Bình Nguyễn
Phim tư liệu
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Khối thời gian qua
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Khối thời gian qua
  • Đổi mới công tác tuyên truyền thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị ở Đảng bộ Khối
  • Đảng uỷ Khối các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh góp phần xây dựng tỉnh Lai Châu bền vững và phát triển
  • Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Sở Khoa học và Công nghệ
  • Học tập và làm theo Bác trong Đảng ủy Cục Quản lý thị trường
1 2 3 
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập